Saturday, May 18, 2013

Đàn kình

Nắm vững vận động đàn tính
4.1. Muốn luyện bằng kình trước hết cần trừ bỏ sự cương ngạnh cố hữu của cơ thể.
Phàm một động tác , như nhấc một vật nặng lên đều cần dùng lực, lâu ngày khiến cho người ta từ thuở nhỏ đã nuôi dưỡng tập quán dùng cổ kình để nắm bắt hoặc nhấc vật nặng .Cổ kình chính là lực do sự cố gắng mà có ,còn gọi là chuyết kình , mà TCQ yêu cầu trước tiên là kình đàn tính do toàn thân phóng trường . Vì vậy luyện TCQ cần chia ra hai giai đoạn:
Giai đoạn 1 là tiêu trừ cổ kình , sau đó mới đến giai đoạn đàn tính sinh trưởng . Kình cũ không bỏ thì kình mới sao đến được ? Cho nên quyền luận có nói "Vận kình như bách luyện cương ,hà kiên bất tồi"(vận kình như luyện thép trăm lần ,cái cứng nào mà không gãy được). Đó là nói cần phải kinh qua sự luyện tập trăm ngàn lần không dụng lực , đồng thời giữ mọi tư thế phóng trường và tùng khai mà vận động lập đi lập lại mới có thể đạt đến chỗ cực kỳ nhu nhuyễn và bỏ đi hoàn toàn kình cương ngạnh cũ, nói khác, chỉ cần "Vận kình như bách luyện cương" ắt bất cứ kình cương ngạnh nào cũng không còn . Đó là tổng kết kinh nghiệm của các quyền sư , tiền bối , cho nên giai đoạn biến cương ngạnh thành nhu nhuyễn không thể thiếu cũng không thể ngắn , người mới học không thể xem thường ,thời gian của giai đoạn này càng dài càng tốt vì chỉ như vậy mới có thể thấu triệt được tính nhu nhuyễn . Nếu không , tương lai người luyện tập sẽ khó tránh bị dừng lại ở khuyết điểm cương nhiều , nhu ít ,khó đạt được sự ổn định trong quá trình luyện tập

4.2.Bằng kình không phải là kình cố hữu trong cơ thể con người:
Trên đã nói, bằng kình là kình cơ bản trong tám loại kình. Bằng kình sinh do đàn tính. Đàn tính này không phải chỉ là đàn tính của bản thân cơ nhục , mà là do rèn luyện cốt cách bền bỉ và cơ nhục liên hợp phóng trường trên cơ sở đàn tính của cốt nhục . Cho nên nói , nó không phải là kình cố hữu của cơ thể con người mà là thứ kình do kinh qua luyện tập lâu ngày mới sinh ra được . Sự phát triển của kình này là từ không đến có,từ có đến cường mạnh . Muốn tập luyện loại bằng kình đàn tính này cần phải tuân theo 4 điều quy định trên của quyền phổ mà tận lực rèn luyện . Mấu chốt của nó trước hết là dùng ý để ra chiêu khiến trong tư tưởng có ý thức phóng trường .

4.3.Thần tụ khí liễm là cơ sở nâng cao bằng kình và tăng gia đàn tính
Trong tình huống thân chi phóng trường , tinh thần con người đề khởi mà tập trung, khí trầm mà nội liễm , đó là hiện tượng phát sinh tự nhiên . Ngược lại cũng có thể chỉ cần thần tụ khí liễm mới có thể khiến cho ý thức có đủ thần thái phóng trường , xúc tiến thân chi phóng trường từ đó nâng cao đàn tính và tăng cường bằng kình. Trong khoảnh khắc thần tụ khí liễm ,nhóm cơ nhục sẽ co lại rất nhiều đồng thời nhóm cơ đối ta càng được buông lỏng thêm , nhân đó nhờ qua luyện tập buông lỏng (phóng túng) và co rút(thu súc) lâu tự nhiên đàn tính của các bộ phận được gia cường và các tố chất thể lực cũng được nâng cao.


2. Tác dụng sinh lý của thân chi phóng trường
Khi cơ nhục chịu lực, cơ thể có một mức duỗi dài nhất định , nhưng nguyên nhân tác động mất đi thì cơ nhục lập tức phục hồi nguyên trạng , đó là đàn tính cố hữu của con người . Sự vận động bình thường TCQ là nâng cao đàn tính đó . Căn cứ vào sinh học con người mà xét loại đàn tính co duỗi này có thể đưa đến bốn loại tác dụng sau :

a) Có thể khiến năng lực co duỗi của bản thân cơ nhục có được sự rèn luyện tốt khiến mạng lưới mao quản bên trong cơ nhục được thông suốt .
b) Có thể tăng cường chức năng chuyển hoá của tế bào , kích thích quá trình sinh hoá trong cơ thể
c) Có thể tăng cường tác dụng trao đổi khí của cơ nhục và các tổ chức cơ quan khác của con người.
d) Không những khiến cơ thể hấp thu nhiều oxygen, mà còn khiến sự hấp thu oxygen này đến mức tối đa.

TCQ không chỉ là vận động cơ thể đơn thuần , mà biểu hiện bên ngoài là thần thái cổ đảng ,tư thế rất phức tạp, đa dạng, ẩn bên trong là thần tụ khí liễm ,dùng tâm hành khí . Điều này được nói rõ trong đặc điểm thứ nhất nói trên . Ngoài ra, TCQ không những chỉ nội ngoại song tu mà còn ở đặc điểm thân chi phóng trường để tiến hành lập đi lập lại vận động triền ty có dạng xoắn ốc . Vận động này không những khiến đàn tính của cơ bắp có được sự rèn luyện tốt , mà còn khiến máu huyết tuần hoàn nhanh hơn, tiêu trừ các chứng bệnh do máu huyết ngưng trệ . Đó là tác dụng trọng yếu nhất của đặc tính thân chi phóng trường và tinh thần tập trung .
Ngoài ra , vận động đàn tính của TCQ đối với việc hạ thấp huyết áp cũng có tác dụng thấy rõ , vì trong quá trình co duỗi của cơ bắp sinh ra ATP và Adrenaline đều là những chất tác dụng giãn nở mạch máu . Đồng thời ,khi tiến hành hoạt động tiết tiết quán xuyến , số lượng mao quản được giản nở bên trong cơ nhục gia tăng gấp bội , tiết diện của các huyết quản cũng được khuếch đại khiến máu huyết lưu thông dễ dàng hơn, do đó có thể khiến hạ thấp huyết áp . Hơn nữa , khi luyện quyền vì cơ bắp luân lưu co duỗi khiến các huyết quản không dễ bị xơ cứng . Thêm vào đó , vận động triền ty có dạng xoắn ốc thuận nghịch càng có thể ngăn ngừa sự xơ cứng động mạch . Người luyện lâu năm khi luyện quyền có cảm thấy các huyết quản ở lưng tứ chi như là được nở lớn ra , có cảm giác "khinh tùng thư thích" , nếu như gián đoạn một thời gian liền có cảm giác hiện tượng này sinh ra là do số lượng mao quản được tăng hay giảm .

3. Tám loại kình và bằng kình
TCQ yêu cầu dùng ý không dùng chuyết lực , nhưng không phải dùng ý không dùng kình, vì TCQ do 8 loại kình cấu thành , các loại kình này đều có đàn tính của sự phóng trường cho nên mới gọi là kình chứ không gọi là lực . Tám loại kình này tuy có khác nhau nhưng thực chất chỉ là một thứ bằng kình , kỳ dư bảy loại kình kia chẳng qua vì phương vị và tác dụng bất đồng khác nhau nên gọi tên khác đi mà thôi . Cho nên TCQ cũng có thể gọi là bằng kình quyền . Ở đây chúng ta phân tích nội dung tám loại kình này để dễ dàng nắm vững đặc điểm thứ hai này :

a) Tại toàn động , chưởng tâm từ trong hướng ra ngoài triền ty ( triền ty: quấn tơ) , gọi là bằng kình.
b) Tại toàn động , chưởng hướng từ ngoài vào trong triền ty gọi là lý kình.
c) Hai tay đồng thời đưa bằng kình giao nhau hướng ra ngoài bằng ra gọi là tễ kình .
d) Chưởng tâm hướng hạ ấn xuống , bằng kình tập trung niêm dính vào một điểm gọi là án kình
e) Hai tay giao nhau hướng phải trái trước sau dùng bằng kình mà phân ra hai bên gọi là thái kình
f) Đưa bằng kình "quyển súc" bắt đầu trong cự ly ngắn , bất ngờ đánh ra gọi là liệt kình.
g) Tay đã ra ngoài vòng phương viên rồi , dùng tuyến phòng ngự thứ hai là bằng kình của chỏ bằng ra , gọi là trừu kình.
g) Chỏ đã ra ngoài vòng phương viên rồi ,dùng tuyến phòng ngự thứ ba bằng kình của thân bằng ra , gọi là hạo kình. Tổng hợp các điểm trên mà nói , điều chủ yếu là luyện bằng kình.Bằng kình là một loại kình đàn tính (kình có tính đàn hồi).

No comments:

Post a Comment